Lê An
1. Lời dẫn nhập
Czesław Miłosz (1911-2004) là nhà thơ, nhà văn người Ba Lan đạt giải thưởng Nobel Văn học năm 1980. Bài thơ “Tín đồ cơ đốc đáng thương nhìn vào getto” do Czesław Miłosz sáng tác vào năm 1943 tại Warszawa và được in trong tập thơ “Ocalenie” (Giải cứu) xuất bản năm 1945. Getto là một khu vực của thành phố trong đó các thành viên của một chủng tộc hoặc tôn giáo cụ thể sống gần nhau và tách biệt với những người khác, thường là kết quả của áp lực xã hội, pháp lý hoặc kinh tế; getto trong bài thơ này chỉ khu phố người Do Thái ở Warszawa (Ba Lan) năm 1943. Bối cảnh lịch sử ra đời của bài thơ như sau. Ngày 19 tháng 4 năm 1943 là ngày diễn ra cuộc nổi dậy vũ trang ở getto Warszawa chống lại Đức Quốc xã. Lời kêu gọi đấu tranh của Ủy ban quốc gia Do Thái được cho là phản ứng trước đợt trục xuất lớn cuối cùng người Do Thái từ getto đến các trại tập trung. Cuộc nổi dậy kéo dài hơn một tháng. Gần 14 nghìn quân nổi dậy bị giết và hơn 56 nghìn người bị trục xuất. Chủ đề bài thơ đề cập đến việc xóa bỏ getto tại Warszawa và nạn diệt chủng người Do Thái trong Thế chiến II (1939-1945). Nhân vật trữ tình là một tín đồ cơ đốc giáo đang quan sát từ bên ngoài sự tàn phá getto và cái chết của những cư dân ở đó.
Bài thơ này của Czesław Miłosz gợi ý rằng việc không đáp trả cái ác sẽ khiến người chứng kiến đồng lõa với tội ác. Mặc dù không trực tiếp tham gia vào hành động hủy diệt, nhưng do tính thụ động thờ ơ của mình, người đó trở thành một trong những “trợ thủ tử thần”. Tín đồ cơ đốc giáo cũng trở thành nạn nhân – thi thể của người đó cũng sẽ được tính vào số những người đã chết. Qua đây, Czesław Miłosz nhấn mạnh tính phổ quát của đau khổ và cái chết ảnh hưởng đến mọi người, bất kể tôn giáo.
2. Bản dịch bài thơ
Tín đồ cơ đốc giáo đáng thương nhìn vào getto
Czesław Miłosz
Những con ong xây tổ quanh lá gan đỏ,
Những con kiến xây tổ quanh những khúc xương đen,
Bắt đầu việc xé, giày xéo lụa
Bắt đầu việc phá vỡ kính, gỗ, đồng, nikel, bạc, bọt thạch cao,
sắt miếng, dây vĩ cầm, kèn đồng, lá cây, quả cầu tròn và đồ thủy tinh –
Phụt! Lửa phốt pho từ những bức tường vàng
Liếm cháy tóc người và vật.
Những con ong xây tổ quanh buồngphổi,
Những con kiến xây tổ quanh những khúc xương trắng,
Rách tan nào giấy, cao su, vải đay, da thuộc, vải gai,
Sợi, vải, xen-lu-lô, tóc, vảy rắn, dây thép,
Mái, tường sụp đổ trong biển lửa, hơi nóng bao trùm nền móng.
Mặt đất bây giờ chỉ còn cát, bị chà đạp và một cây trơ trụi lá.
Chầm chậm như chuột chũi, ngài bảo vệ chui ra khỏi đường hầm,
Trán đeo một cái đèn soi nhỏ đỏ.
Ngài sờ, đếm đám thi thể đã chôn cất, rồi đi tiếp,
Ngài phân biệt tro người theo hơi cầu vồng,
Tro của mỗi người có màu cầu vồng khác nhau.
Những con ong xây tổ quanh vết đỏ
Những con kiến xây tổ quanh chỗ mà cơ thể tôi từng nằm.
Tôi sợ, tôi sợ lắm ngài bảo vệ – chuột chũi,
Mí mắt của ngài sưng tấy như của tộc trưởng,
Đã ngồi nhiều dưới ánh nến
Đọc cuốn sách vĩ đại của loài người.
Tôi sẽ nói gì với ngài khi tôi là người Do Thái thời Tân Ước,
Hai ngàn năm chờ Chúa Giêsu trở lại?
Cơ thể tan vỡ của tôi sẽ phơi bày tôi trước mắt ngài
Và ngài sẽ tính tôi vào đám trợ thủ tử thần:
Những kẻ không cắt bao quy đầu.
Warszawa, 1943
3. Bài thơ nguyên bản
Biedny chrześcijanin patrzy na getto
Miłosz
Pszczoły obudowują czerwoną wątrobę,
Mrówki obudowują czarną kość,
Rozpoczyna się rozdzieranie, deptanie jedwabi,
Rozpoczyna się tłuczenie szkła, drzewa, miedzi, niklu, srebra, pian
Gipsowych, blach, strun, trąbek, liści, kul, kryształów –
Pyk! Fosforyczny ogień z żółtych ścian
Pochłania ludzkie i zwierzęce włosie.
Pszczoły obudowują plaster płuc,
Mrówki obudowują białą kość,
Rozdzierany jest papier, kauczuk, płótno, skóra, len,
Włókna, materie, celuloza, włos, wężowa łuska, druty,
Wali się w ogniu dach, ściana i żar ogarnia fundament.
Jest już tylko piaszczysta, zdeptana, z jednym drzewem bez liści Ziemia.
Powoli, drążąc tunel, posuwa się strażnik-kret
Z małą czerwoną latarką przypiętą na czole.
Dotyka ciał pogrzebanych, liczy, przedziera się dalej,
Rozróżnia ludzki popiół po tęczującym oparze,
Popiół każdego człowieka po innej barwie tęczy.
Pszczoły obudowują czerwony ślad,
Mrówki obudowują miejsce po moim ciele.
Boję się, tak się boję strażnika-kreta.
Jego powieka obrzmiała jak u patriarchy,
Który siadywał dużo w blasku świec
Czytając wielką księgę gatunku.
Cóż powiem mu, ja, Żyd Nowego Testamentu,
Czekający od dwóch tysięcy lat na powrót Jezusa?
Moje rozbite ciało wyda mnie jego spojrzeniu
I policzy mnie między pomocników śmierci:
Nieobrzezanych.
Warszawa, 1943
