in

Điều trị ung thư đặc hiệu phổ hẹp có tín hiệu khả quan?

Bác sĩ Hoàng Sầm (*)

Bệnh ung thư là một phần của đời sống từ khi xuất hiện động vật và loài người, nó là mảng tối trong khoa học bệnh học mà loài người phải chấp nhận. Trong đó, vai trò của các bác sỹ trong điều trị là hết sức khiêm tốn. Chết tế bào ung thư có thể được phân thành bốn dạng khác nhau: chết theo chương trình (Apoptosis), chết do tự thực (Autophagy), chết do hoại tử và chết do bị xâm lấn chèn đè (entosis).

Hiện nay chúng ta điều trị ung thư bằng xạ trị, hoá trị, điều trị đích đều hướng tới hạn chế hoặc bất hoạt gene sinh sản, tắt tín hiệu thúc đẩy phát triển, gây hoại tử; các con đường gây chết khác chưa được chú ý nhiều.

Các đường truyền tín hiệu quan trọng

Sự sống hay chết của tế bào ung thư liên quan mạnh mẽ đến rất nhiều đường truyền tín hiệu, nhưng đặc biệt có ba con đường, con đường truyền tín hiệu PI3K/AKT/mTOR, con đường Ras/MAPK và tín hiệu Wnt, Wnt/catenin… tham gia rộng rãi vào các quá trình khác nhau của bệnh ung thư, bao gồm khởi phát, phát triển khối u, lão hóa tế bào, chết tế bào, biệt hóa và đột biến, di căn… các tín hiệu thường xuyên được kích hoạt trong bệnh ung thư. Các đường truyền tín hiệu chính là mục tiêu điều trị rất quan trọng.

Mục tiêu hàng đầu – Diệt “mối chúa”

Mục tiêu điều trị quan trọng nhất phải nói tới tế bào gốc ung thư (CSC), tế bào ung thư và CSC được sinh ra bởi CSC ban đầu (cancer stem cell – CSC), do vậy bất kỳ loại ung thư nào cũng có CSC. Nó được ví như “con mối chúa”, tế bào ung thư chỉ là “mối thợ”, việc di căn, phát triển, xâm lấn và sinh ra các tế bào ung thư khác cũng chỉ do nó. Đặc biệt khả năng kháng trị, biến đổi, thích nghi… của CSC là rất mạnh và kiên cường. Chúng ta có thể diệt hết tế bào ung thư nhưng không diệt được CSC thì mọi công sức chỉ là “công cốc”, vì lập tức và nhanh chóng nó sẽ sản sinh ra 1 thế hệ ung thư kháng trị mạnh mẽ hơn. Do vậy trong điều trị, ưu tiên số một là diệt tế bào gốc ung thư, còn việc diệt tế bào ung thư cũng quan trọng, nhưng so với CSC chỉ là thứ yếu.

Bác sỹ Hoàng Sầm – Chủ tịch Viện Y học bản địa Việt Nam

Điều trị đặc hiệu phổ hẹp bằng thảo dược

Chúng ta hình dung rằng, ví dụ 1 loại thuốc đặc hiệu phổ hẹp cho hệ tiêu hoá có chứa tới 23 cây thuốc với 23 cơ chế can thiệp gây chết, ngăn cản, hạn chế tế bào ung thư, nếu có 5-6 thuốc như vậy thì cơ chế gây chết sẽ là 115 – 138 con đường. Theo đó hình thành một cuộc tranh đấu tổng hợp bao gồm sức miễn dịch của cơ thể phối hợp thuốc thảo dược với nhiều cơ chế tác dụng… để tế bào ung thư không đủ thời gian huy động nguồn lực kháng trị. Điều thú vị là khi nghiên cứu thuốc chữa ung thư đại tràng thì lại thấy nó có tác dụng với cả ung thư gan, thuốc chữa ung thư gan có tác dụng với cả ung thư dạ dày, thuốc chữa ung thư dạ dày có tác dụng với cả ung thư tuỵ… theo đó chúng tôi xây dựng phác đồ đặc hiệu phổ hẹp là vậy.

Tính đa dạng của dòng tế bào ung thư

Mỗi loại ung thư có nhiều dòng tế bào, mỗi dòng đáp ứng với những cây thuốc, vị thuốc khác nhau với các MIC, IC50, EC50 cũng khác nhau. Cùng là ung thư phổi, có người được chữa lành, có người không đáp ứng thuốc, nhưng chúng ta biết rất hạn chế cây thuốc nào tác dụng với dòng tế bào nào. Bởi vậy, giống như 1 mũi tên chưa chắc bắn chết 1 con cá, nhưng 23 mũi tên, hơn nữa là 115 -138 mũi tên thì nguy cơ trúng 1 con cá là cao hơn nhiều, theo đó người bệnh cần uống nhiều loại thuốc hơn.

Phác đồ điều trị bằng thảo dược có gì ưu việt?

Với tây y, liệu trình có khoảng nghỉ chính là cơ hội cho ung thư biến đổi, né, lẩn, trốn, tránh, thích nghi kháng trị, đó có thể là 1 sai lầm hợp lý, vì xạ trị hoá trị có độc và sức chịu đựng con người có hạn. Thảo dược ít độc tính hơn, nhưng hiệu lực cũng kém mãnh liệt hơn thuốc tây, do vậy chúng ta thiết kế 1 liệu trình dài hơi hơn, liên tục không giảm liều, không ngưng nghỉ… thường là 6 – 9 tháng cho 1 liệu trình điều trị nhằm chống kháng trị. Điều trị ung thư thường cần 4-6 liệu trình như vậy, nên cần căn cứ tình hình thực tế để ra quyết định điều trị.

Khối u là tổ chức sống nên cũng bị viêm, nhiễm khuẩn, phù nề, tích nước cho nên khi thấy khối u tăng trọng, tăng kích thước không có nghĩa là bệnh đã nặng lên, mà nên dùng 1 đợt kháng sinh đặc hiệu để chống viêm, chống nhiễm khuẩn, giảm phù nề rồi mới đánh giá lại.

Về liều dùng, để bảo đảm mỗi ml máu trong cơ thể có được tối thiểu ≥ 500 microgam dược chất, cần tính theo cân nặng, trung bình cứ mỗi 10 kg thân trọng sẽ dùng tương đương 1 viên thuốc để thoả mãn yêu cầu điều trị; liều trong phác đồ là liều cho người 60 kg thân trọng, khi sử dụng cần có liều cụ thể có từng cá thể.

(*) Bác sỹ Hoàng Sầm – nguyên giảng viên Đại học Y Dược Thái Nguyên, hiện là Chủ tịch Viện Y học bản địa Việt Nam.

What do you think?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

GIPHY App Key not set. Please check settings

Viện Y Học Bản Địa Việt Nam chuyển giao công thức phối chế dược liệu cho Y Dược Kinh Đô

Thơ tác giả Hussein Habasch (Kurdistan)