Khương Thị Mến
(Hội viên Hội VHNT Hưng Yên)
(Nhân đọc bài thơ “Viếng đền Lệ Chi Viên” của tác giả Vũ Mai Phong.)
VIẾNG ĐỀN LỆ CHI VIÊN
Thạch lệ đây – một chứng tích điêu linh
Tiếng uất nghẹn vọng xuyên bao thế kỷ
Đất thẫm máu, trái vải loang chua chát
Lưỡi đao trời giáng xuống Lệ Chi Viên
Hơn bốn trăm linh hồn oan khiên
Hồn hỡi hồn! Đã vãng sinh, giải thoát
Hay hồn còn lang thang, vất vưởng,
Cõi mịt mờ vô pháp, vô minh?
Những nạn nhân của tao loạn triều đình
Sới đấu đá tranh quyền đoạt vị
Màu vàng son giấu mưu ma chước quỷ
Áo tía đai vàng nhất phẩm, vương tôn…
Bao năm chờ ân chiếu minh quân
Nỗi oan khuất mới nửa phần khai giải
Để lại đời sau nửa phần nghi vấn
Xót xa này ngút tận cao xanh
Ngàn thông reo than khóc nỗi Côn Sơn
Nghe ai oán cả Bình Ngô Đại Cáo
Thái tổ ơi, thước nào đo công tội
Lòng dân ta hay nước mắt thánh thần?
Nay nhân duyên dẫn lối tới cửa thiêng
Dải đất lành bên bờ sông Thiên Đức
Vườn vải mới qua bao mùa kết trái
Ngọt đã về trĩu trịt tịnh thơm.
Cảm hứng lịch sử, văn hóa là dòng chảy bất tận của văn học dân tộc. Trong số những tác phẩm thành công khi viết về chủ đề này, tôi thực sự ấn tượng với bài thơ “Viếng đền Lệ Chi Viên” của tác giả Vũ Mai Phong. Bài thơ thể hiện nỗi bi ai, uất hận và lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ đối với đại công thần, danh nhân Nguyễn Trãi, đồng thời tố cáo tội ác của triều đình phong kiến và khẳng định niềm tin vào công lý, vào tương lai tươi sáng. Bài thơ được viết nhân dịp nhà thơ viếng đền Lệ Chi Viên.

Lệ Chi Viên là di tích lịch sử văn hóa nằm gần trung tâm vùng đất Kinh Bắc được các triều đại phong kiến Việt Nam xây dựng hành cung thời Lý-Trần. Sau nhà trần gọi là ly cung, nhà Lê đổi thành cung Yên Hà và mở rộng một khu quân sự đặc biệt. Vua Lê Thái Tông giao cho Nguyễn Trãi cai quản, ông đã trồng rất nhiều vải ở đây nên người ta thường gọi là Lệ Chi Viên. Lệ Chi Viên đi vào lịch sử với thảm án oan động trời dậy đất của gia tộc Nguyễn Trãi.
Mở đầu bài thơ là bức tranh u buồn, tang thương, sầu thảm bao trùm Lệ Chi Viên:
Thạch lệ đây một chứng tích điêu linh
Tiếng uất nghẹn vọng xuyên bao thế kỉ
Thạch lệ – nước mắt hóa đá, những giọt nước mắt đá còn nặng trĩu như chứng tích nỗi đau thương điêu đứng tàn tạ ám ảnh bao thế hệ. Tiếng “uất nghẹn” là tiếng khóc tức tưởi, uất ức, đau đớn, nghẹn ngào từ cõi âm vọng lại day dứt không nguôi như một ẩn ức lịch sử, có tố cáo tội ác tàn bạo của triều đình phong kiến và sự bất công của số phận. Hình ảnh “chứng tích điêu linh” và “tiếng uất nghẹn” đã gợi lên một không khí buồn thương u ám, hoang phế, lạnh lẽo. Tiếng “uất nghẹn” vang vọng “xuyên bao thế kỷ” cho thấy nỗi đau này không chỉ thuộc về quá khứ, mà còn hiện hữu trong tâm thức của tác giả và thế hệ sau này. Câu thơ cho thấy mối tương giao tâm linh đặc biệt của tác giả với những linh hồn oan khuất nơi đây khi đắm chìm trong niềm xót thương.

Khu vườn vải Lệ Chi Viên còn có một tên gọi đau xót là khu vườn máu, bởi nó chưa thôi nhòa lệ trong lòng người.
Đất ngấm máu, trái vải loang chua chát
Lưỡi đao trời giáng xuống Lệ Chi Viên
Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ “đất thẫm máu”, “vườn vải thành chua chát”, “lưỡi đao trời” được sử dụng để thể hiện sự tàn khốc, bi thảm, tang thương của Lệ Chi Viên sau thảm án. “Lưỡi đao trời” – hình ảnh ẩn dụ ghê rợn, thể hiện sự tàn bạo của đao kiếm quyền thần đã giáng xuống nơi đây, cướp đi mạng sống của những người vô tội. Giọt máu oan khuất loang ngấm xuống khu vườn, sát khí lạnh buốt úa tàn cỏ cây, vườn vải Nguyễn Trãi trồng cũng chua chát như thân phận người. “Đất ngấm máu, trái vải loang chua chát”. Câu thơ ám ảnh, nặng trĩu tâm can người đọc trước sự xoay vần, biến cải của cuộc thế, phận người trong dòng xoáy với muôn sự chuyển dời chao đảo. “Bây giờ qua Lệ chi viên/Mưa vẫn máu, gió vẫn gào đao kiếm/Đao kiếm vô tình, vô chung, vô thuỷ/Máu anh hùng nhuộm đỏ giang sơn” (Qua Lệ Chi Viên-Thơ Trần Chấn Uy). Thời gian là vô hình nhưng thời gian không thể xóa nhòa tất cả. Thời gian phủ bụi lên thân phận con người trong cõi nhân sinh nhiều uẩn khúc.
Cấu trúc của bài thơ vận động theo trục tuyến tính, liên tưởng đan xen giữa hiện tại – quá khứ, hoài niệm – suy tưởng, những câu cảm thán, câu hỏi tu từ chất chứa sự thấu cảm đến tận cùng đau xót, vừa cuốn người đọc trăn trở, suy tư, day dứt cùng nhà thơ :
Hơn bốn trăm linh hồn oan khiên
Hồn hỡi hồn! Đã vãng sinh, giải thoát?
Hay vẫn còn lang thang, vất vưởng,
Cõi mịt mờ vô pháp, vô minh?
Tác giả xót thương cho hơn bốn trăm linh hồn, những người vô tội đã bị sát hại một cách dã man. Thật kinh hoàng khủng khiếp, vườn vải từ đó trở thành đầu mối và diễn trường vụ án chỉ trong vòng 10 ngày, vụ án Lệ Chi Viên thành thảm án oan sai lớn nhất trong lịch sử dân tộc. Câu hỏi “Hồn hỡi hồn! Đã vãng sinh, giải thoát?” như xoáy sâu vào lòng người, khơi gợi niềm xót xa và trăn trở day dứt của tác giả về số phận nhỏ bé của những linh hồn oan khuất. Liệu họ có đến được cõi cực lạc hay vẫn còn chìm trong đau khổ, phiền não, oán giận?. Vì thế, Lệ Chi Viên mấy trăm năm qua vắng bóng ngựa xe, phảng phất liêu trai, dật dờ hồn ma bóng quế lang thang buồn tủi. Trong nỗi ám ảnh vô thức, trong mối tương giao tâm linh đặc biệt, dường như nhà thơ nghe và cảm được tiếng kêu khóc vọng càn khôn của những linh hồn chưa siêu thoát. Những vong hồn bơ vơ, vất vưởng mang theo oán thán vô minh. Vô minh là mê muội, mờ ám, dốt nát, tối tăm mờ mịt không sáng suốt, là trạng thái thiếu hiểu biết của con người, là nguyên nhân của tội lỗi và đau khổ. Vô pháp không có phép tắc, không biết xử sự có đạo đức. Vì sự vô minh, vô pháp đã gây ra cái chết thảm khốc của Nguyễn Trãi & Nguyễn Thị Lộ hàng trăm mạng người vô tội. Vì vô pháp, vô minh mà những linh hồn con dân thấp cổ bé họng không tìm được sự thanh thản, tịnh độ siêu thoát sau khi vãng sinh.
Vượt lên trên những cảm xúc xót xa, bằng sự am tường quy luật lịch sử, bằng chính đời sống nhà thơ đã sống và chiêm nghiệm từ đó đưa ra lời kiến giải của mình bằng góc nhìn thấu thị mang tính minh triết:
Những nạn nhân cơn tao loạn triều đình.
Sới đấu đá tranh quyền đoạt vị
Màu vàng son giấu mưu ma chước quỷ
Áo tía đai vàng nhất phẩm, vương tôn.
“Cơn tao loạn triều đình” là nguyên nhân dẫn đến thảm án Lệ Chi Viên. Họ là nạn nhân “lưỡi dao oan nghiệt của cái triều đình hèn hạ và ngu muội” (Trần Huy Liệu). “Sới đấu đá tranh quyền đoạt vị” là bản chất của triều đình phong kiến, nơi những bè lũ gian thần tham lam, độc ác, tác yêu tác quái, sẵn sàng hãm hại lẫn nhau, tranh giành quyền thế đẩy đất nước vào cảnh nhiễu loạn, dẫn đến bi kịch thương tâm. Hình ảnh “màu vàng son”, “áo tía đai vàng” tượng trưng cho cường quyền, địa vị cao sang của triều đình phong kiến, đối lập với hình ảnh “mưu ma chước quỷ” thể hiện hèn hạ, xảo trá, không từ thủ đoạn của họ. Đối lập “nhất phẩm, vương tôn” thuộc tầng lớp quý tộc, có địa vị quyền uy với hình ảnh “hơn bốn trăm linh hồn” đã thể hiện sự bất công, tàn bạo của cường quyền tha hóa gợi cho ta bao suy ngẫm sinh thành trong thế giới chất chồng trầm luân bất trắc, trắng đen, sáng tối, thật giả. Nhà thơ như trút hết tâm can mình vào câu chữ bằng giọng thơ đanh thép, trào sôi phẫn uất. Các động từ tranh, đấu đá, tranh đoạt, giấu cùng hình ảnh chốn thâm cung vàng son, áo tía, đai vàng… cộng hưởng đẩy cảm xúc lên đến cao trào giúp nhà thơ lý giải chính xác căn nguyên bản chất của sự việc trong cõi đời và cõi thơ. Kể từ khi dựng sự nghiệp từ những ngày đầu gian khổ khó khăn thì vua tôi cùng chung lưng đấu cật, hoạn nạn có nhau. Đến khi vinh hoa phú quí thì quay lưng, bè phái thanh trừng, sát phạt nhau tàn khốc dơ bẩn. Vụ án Lệ Chi Viên cũng không nằm ngoài qui luật nghiệt ngã đó. Nguyễn Trãi một tài năng quá lỗi lạc, uyên bác một nhân cách cao thượng, suốt đời vì dân vì nước, một đại công thần trở thành là nạn nhân của chính triều đại mà ông đã ra sức chiến đấu gây dựng lên. Sự thay đổi của lòng người trước quyền uy, danh vọng ở bất cứ thời đại nào cũng đều rất tàn nhẫn, nguy hiểm. Đọc thơ Vũ Mai Phong ta thấy cả thế giới gói lại trong một giọt nước mắt, ta thấy được chiều kích của văn chương là vô tận, vô tận theo nghĩa chủ động bởi đó là văn chương.
Tuy nhiên, giữa u buồn và phẫn uất, tác giả vẫn giữ niềm tin vào công lý.
Bao năm chờ ân chiếu minh quân
Nỗi oan khuất mới nửa phần khai giải
Để lại đời sau nửa phần nghi vấn
Xót xa này ngút tận cao xanh
Sau 22 năm, vua Lê Thánh Tông đã chính thức ban chiếu chiêu tuyết, minh oan để cả thiên hạ thấy được lòng sáng như Sao Khuê của nhà thơ Ức Trai. Tác giả sử dụng hình ảnh thơ đối xứng: “bao năm” đối với “nửa phần”, “khai giải” đối với “oan khuất” như một sự an ủi, vớt vát, bù đắp cho một nhân cách nhân nghĩa, thanh liêm, chính trực. “Ân chiếu minh quân” là chiếu chỉ của vua sáng, thể hiện sự chính trực, công bằng, minh bạch. Song thật đáng buồn đó mới chỉ là nửa phần khai giải, bởi còn rất nhiều nghi vấn chưa được làm sáng tỏ khiến cho thế hệ sau phải nghi ngờ, băn khoăn. Lịch sử bắt đầu đã là một bí ẩn và kết thúc cũng là một bí ẩn mà ngay ở thời điểm bắt đầu có rất nghi vấn. Nghi vấn đó chỉ có thể được hồi đáp khi sự thật được lý giải thấu thỏa. Ngay chính nhà thơ cũng mờ mịt trong nẻo về tìm bóng tiền nhân?. Nguyễn Trãi đã được minh oan từ lâu, người dân Việt Nam ai ai cũng rõ. Còn nỗi oan của cụ Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và hàng trăm sinh mệnh vô tội thì không nói tới. Lịch sử đùa cợt đúng sai. Nỗi oan không chết bao giờ, chỉ còn sự thật trần trụi về nỗi đau thấu đến muôn đời. Nỗi đau ấy bầm tím trời xanh, nghe bạc cả kiếp người tài hoa:
Ngàn thông reo than khóc nỗi Côn Sơn
Nghe ai oán cả Bình Ngô Đại Cáo
Nhà thơ trút hết lòng mình vào từng câu chữ: “ngàn thông than khóc” thể hiện sự thê lương tang tóc bao trùm lên mảnh đất Côn Sơn. Nỗi Côn Sơn là hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng đau đáu ái dân, ái quốc, cho lí tưởng sống tu thân nhập thế, cho nỗi khắc khoải canh cánh nỗi lo đời, cho bản lĩnh cứng cỏi ngay thẳng của Nguyễn Trãi ngay cả khi ông bị thất sủng. “Côn Sơn ơi Côn Sơn. Suối kia chảy mấy dòng. Mà ngàn câu hậu thế. Xót xa người trắng trong…”. Tác giả sử dụng hình ảnh “Côn Sơn”, “Bình Ngô Đại Cáo” để gợi nhớ về công lao to lớn của đại công thần Nuyễn Trãi trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Cuộc đời Nguyễn Trãi sang sảng “tiếng gươm khua”, một ngọn bút bằng trăm ngàn binh sĩ, mưu tính như thần vẫn không tránh được hàm oan. Tấn bi kịch Lệ Chị Viên “anh hùng để hận mấy ngàn thu” nhức nhối, quặn thắt, ai oán, thấm cả vào trang tuyên ngôn sừng sững Bình Ngô Đại Cáo, nỗi đau xé lòng phủ lên thiên nhiên vạn vật mà tức tưởi “nỗi Côn Sơn”. Câu thơ đã mở ra cho độc giả cái nhìn chân thực về bi kịch của một vĩ nhân đơn độc sống trong xã hội quá ư bé nhỏ và chật hẹp, ích kỉ, để lại cho đời sau nỗi day dứt trăn trở về lương tri, về nhân tình thế thái, về thân phận con người trước cơn dâu bể. Thời đại thịnh rồi thời đại suy. Cuộc bể dâu nào ai biết trước. Đọc câu thơ, chúng ta không chỉ cảm nhận thị giác, thính giác, trí giác mà còn bằng thi giác mới có thể cảm hết được. Tôi cho rằng, đây là những câu thơ thơ hay nhất trong bài thơ được viết trong cảm xúc thăng hoa từ gan ruột của nhà thơ có sức lay động lớn với người đọc. Hơn sáu trăm năm và nghìn vạn năm nữa, các thế hệ người Việt Nam đều lần lượt dìu nhau đi qua nỗi đau của Nguyễn Trãi như động lực để sống bất chấp, gièm pha, thị phi, đố kỵ, tỵ hiềm, ngang trái.
Tứ thơ tiếp tục được triển khai trên hệ thống các trường từ vựng cộng hưởng định lượng nỗi đau, gợi lòng trắc ẩn: uất nghẹn, máu, chua chát, xót xa, than khóc, ai oán, nước mắt kết hợp với câu hỏi tu từ, từ cảm thán, đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đặt chúng ta trong cuộc chất vấn trước nghịch lí, trớ trêu của lịch sử để thấy mối tương quan, kết nối đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại, vấn đề của hôm qua trong cuộc sống hôm nay.
Thái Tổ ơi, thước nào đo công tội
Lòng dân ta hay nước mắt thánh thần?
Câu thơ trên là điểm nhấn sức mạnh tinh thần của cả bài, chứa vùng xoáy tư duy những triết luận ẩn dưới vỉa tầng ngôn từ đa nghĩa “thơ cốt ở ý, ý có sâu xa, thơ mới hay”. Thơ Vũ Mai Phong tinh ở chữ, sâu ở nghĩa, mạnh ở tứ, ấn tượng từ những góc nhìn đa chiều phơi trải lên trang viết. Câu hỏi tu từ “Thái tổ ơi, thước nào đo công tội/ Lòng dân ta hay nước mắt thánh thần?” (Thái tổ là vua Lê Lợi minh chủ của Nguyễn Trãi) thể hiện niềm tin của tác giả vào vào sự chiến thắng cuối cùng của công lý, chính nghĩa và lòng dân. Nguyễn Trãi là người thương dân, yêu dân và trọng dân như một lẽ hiếu sinh nên ông sống mãi trong lòng dân là một tất yếu. Nhân dân bao giờ cũng sáng tỏ phân minh và độ lượng. Thêm một lần nữa nhà thơ cảm thông với nỗi đau oan ức của danh nhân lịch sử suốt sáu thế kỷ qua, càng thêm thấm thía vào niềm tin ở lẽ công bằng chính nghĩa. Cũng như nhà thơ, tôi hay đạo diễn, nhà báo Nguyễn Anh Tuấn đều có niềm tin xác tín rằng cuộc đời “vẫn cứ vận hành và sắp xếp các giá trị theo một quy luật công bằng trong tận đáy bản chất nghiệt ngã của nó – bất chấp mọi mưu mô gian ngoan quỷ quyệt…và sự thờ ơ ích kỷ nông cạn của con người”. Nhà thơ gợi chuyện xưa nghĩ ngợi kiếp người, mượn kiếp người mà đối thoại lịch sử. Con người ta sinh ra không phải đề tan biến như một hạt cát, họ sinh ra để lưu dấu trên mặt đất và trái tim con người.Đá giọt lệ được đặt ở ngôi đền là giọt nước mắt của hậu thế khóc cho nỗi oan của gia tộc Nguyễn Trãi. Trong dòng chảy tuần hoàn vô hạn của thời gian Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ vẫn đã sống trong trong lòng người dân Tân Lễ – Thái Bình và người dân vùng Khuyến Lương – Hà Nội với lòng ngưỡng mộ, kính yêu và thương xót.
Khổ thơ cuối khép lại bài thơ trong niềm hân hoan xúc động ngỡ ngàng của tác giả: một khung cảnh thanh bình, tươi đẹp hiện diện trên mảnh đất Lệ Chi Viên – nơi an nghỉ của người anh hùng Nguyễn Trãi.
Nay nhân duyên dẫn lối tới cửa thiêng
Dải đất lành bên bờ sông Thiên Đức
Vườn vải mới qua bao mùa kết trái
Ngọt đã về trĩu trịt, tịnh thơm.
Nhân duyên là “cơ duyên may mắn có từ kiếp trước”, “cửa thiêng” là không gian thanh tịnh, linh thiêng tại đền Lệ Chi Viên. Qua bao thăng trầm, bến động của lịch sử, dòng sông Thiên Đức (tên dòng sông Đuống) ngày đêm soi bóng đền Lệ Chi Viên vẳng nỗi buồn thương đã lùi vào quá khứ, Lệ Chi Viên đã hồi sinh. Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp “dải đất lành”, “vườn vải trĩu trịt, tịnh thơm” đối lập với hình ảnh “Lệ Chi Viên” – nơi diễn ra thảm kịch kinh hoàng ở đầu bài thơ, như những lời an ủi, tịnh độ, vỗ về đối với những linh hồn oan khuất, thể hiện sức sống mãnh liệt của vạn vật cùng niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai tươi sáng và tình cảm trân trọng, yêu mến của tác giả đối với mảnh đất Lệ Chi Viên, nơi những giá trị tinh thần bất tử của Nguyễn Trãi được thẩm thấu vào cuộc đời có tác dụng thanh lọc và nâng tâm hồn mỗi chúng ta.

“Viếng đền Lệ Chi Viên” như một cuộc hành hương về lịch sử, một nén hương trầm mà nhà thơ thắp lên tưởng nhớ đại công thần Nguyễn Trãi, khẳng định niềm tin ở nhân dân, ở công lý, niềm vào cuộc sống mới. Bài thơ chinh phục người đọc bằng câu thơ không dụng công mà như dụng công từ muôn kiếp: ngôn ngữ chắt lọc, hình ảnh thơ giàu sức gợi, giọng thơ linh hoạt, sử dụng thành công các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, đối lập. Tôi đọc bài thơ thêm một lần nữa để hiểu rằng đằng sau nỗi sầu cảm thương đau buồn đến rớm máu của nhà thơ là câu chuyện của một đại quý tộc, một đại trí thức, đại công thần trong mối quan hệ với quyền lực như phép thử đắt giá về lòng trung, sự dũng cảm và nhân cách, bản lĩnh của con người trước bão giông thời đại. Thơ Vũ Mai Phong là vậy: không chỉ giàu tính triết luận mà còn hàm chứa kiến thức uyên bác, trí tuệ, chiêm nghiệm sâu sắc, đậm dấu ấn lịch sử văn hóa góp phần làm nên vẻ đẹp thi ca của anh. Đây cũng là lí do để thơ anh chinh phục độc giả.