in

Trường ca Mị Châu – Trọng Thuỷ

Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy hay không kém gì các truyền thuyết Hy Lạp nổi tiếng như Chaos, Titan, Hercules…, đã được rất nhiều nhà thơ viết như Tản Đà, Tố Hữu… nhưng mình không thấy ai viết cả truyện dưới thể lục bát, nên mạo hiểm làm, để cho các cháu đọc dễ nhớ và biết sử ta, nhất là các cháu sống ở hải ngoại. Cũng là món quà tặng các bạn yêu thơ nhân dịp năm mới! Rất mong nhận được sự đóng góp và ủng hộ của tất cả các bạn gần xa để truyện thơ này hoàn thiện. Xin chân thành cảm ơn!!!

Trường ca Mị Châu – Trọng Thuỷ

Ảnh sưu tầm – Tượng đá Mỵ Châu cụt đầu

Lần xem lịch sử nước Nam

Tình và trung – hiếu khéo làm khổ nhau

Tương truyền, câu chuyện thương đau

Người xưa nhắn ít, đời sau ngẫm nhiều.

Trên từng tấc đất thân yêu

Cha ông máu đổ, lửa thiêu, không sờn

Quyết tâm bảo vệ giang sơn

Hy sinh vì nước, tiếng thơm lưu truyền.

Thời Âu Lạc, trước công nguyên

Có người họ Thục, hữu duyên tâm tài

Chọn ngày tháng tốt lên ngai

An Dương Vương hiệu, trong ngoài nể danh.

Có công chúa đã trưởng thành

Mị Châu tên gọi, hiền lành nết na

Má đào, mày liễu, thướt tha

Nét xoan khuôn mặt, nước da tuyết nhường.

Nụ cười ấm áp bốn phương

Tiếng đàn mê hoặc, lầm đường người nghe

Gót sen lay động trúc tre

Chàng nào nhác thấy, đêm về mơ hoa.

Triệu Đà ngấp nghé ải xa

Lăm le thôn tính, vua cha nóng lòng

Loa Thành thiết kế kỳ công

Xoáy hình trôn ốc, hào thông trong ngoài.

Cứ gẩn đến lúc ban mai

Con gà trống trắng gáy hoài không thôi

Tiếng kêu nhức nhối núi đồi

Thành xây lại đổ, vua ngồi trên than.

Có người khuyên hãy lập đàn

Bên sông cầu khấn khỏi gian nan này

Khói hương linh nghiệm lạ thay

Kim Quy bỗng hiện, hỏi ngay chuyện gì.

Vua quan hoảng hốt lạy quỳ

Rằng: Xin đừng sợ Kim Quy tên thần

Thành xây bị đổ bao lần

Là do yêu quái nên cần trừ ngay!

Cổ Loa, hôm đó mù dày

Kim Quy làm phép lá bay lạ kỳ

Yêu ma biến mất tức thì

Bầu trời xanh lại, người quỳ bên sông.

Vua tôi hợp lực đồng lòng

Thành xây ba tháng đã xong như cầu

Có thành cao, có hào sâu

Làm sao ngăn nổi vó câu hung tàn!?

Ruột đau, nước mắt như chan

Thương dân, lo nước, vua than nỗi lòng

Kim Quy hiện lại như mong:

  • Có chi lo lắng hại long thể rồng?
  • Nhờ thần thành đã xây xong
  • Lo khi giặc đến, nên phòng ra sao?
  • Sử xưa đã dạy thế nào?
  • Dân giàu, nước mạnh, kẻ nào dám gây.
  • Thần cho thêm chiếc móng này
  • Để làm lẫy nỏ chặn bầy sói lang
  • Tên bay một phát giết ngàn
  • Đừng cho ai biết, giang san khó toàn.

Vua mừng, hết đỗi lo toan

Kim Quy rẽ nước, khoan thai giã từ.

Vời Cao Lỗ đến phòng tư

Truyền làm chiếc nỏ giống như lời thần.

Mị Châu muốn biết xa gần

Vua nhìn lưỡng lự, tần ngần ít lâu

Mặt nàng trở nét u sầu

Thương con úp mở, giấu đầu hở đuôi.

Tò mò theo gió đã nguôi

Tiếng đàn trầm bổng, lá xuôi theo dòng.

Mình Châu đi dạo bên sông

Bỗng dưng lo vướng vào vòng phu thê.

Đà mơ bá chủ, u mê

Động binh thôn tính bốn bề gần xa

Đến Âu Lạc, đụng Thành Loa

Linh quy phát tác, quân Đà bại vong.

Chiến tranh máu chảy thành sông

Đà thời biết rõ thắng không ở gần

Cho truyền Thủy đến, ân cần:

  • Con sang Âu Lạc dò quân, giả hòa.
  • Đừng quên thiên hạ của ta
  • Ghi lòng tạc dạ mới là hiếu trung
  • Mình con ở chốn sơn cùng
  • Nằm trong hang cọp, nhớ đừng quên cha.

Một là ở rể giải hòa,

Hai là làm rõ sao ta thua nhiều

Đồn rằng họ có thần tiêu

Khôn ngoan, cẩn trọng, cố điều tra ra.

Rồi Đà gửi chiếu cầu hòa:

  • Rằng dân đã mệt, rằng Đà đã sai
  • Lân bang hòa hiếu lâu dài
  • Thông gia kết nối, tương lai hòa bình.

Đọc xong, vua đứng lặng thinh

Phân vân, không rõ ẩn tình gì đây.

Cận thần thân Triệu giãi bày:

  • Chiếu theo đại cục, nghĩ nay nên hòa
  • Thời cơ dưỡng sức quân ta,
  • Hai nhà hòa hiếu, mới là khôn ngoan
  • Chiến tranh dân khổ muôn vàn
  • Cũng cần gia cố vẹn toàn Thành Loa.
  • Lời ngươi hẳn giống ý ta
  • Lại thêm Linh nỏ hẳn Đà hòng mơ
  • Con trai ở rể bây giờ
  • Động binh bị giết, quân cờ tay ta.

Mị Châu nghe bị gả xa

Nào đâu dám cưỡng lời cha, ý trời

Giữa tình và hiếu chơi vơi

Sầu cao như núi, nghẹn lời sau then.

Vua nghiêm mặt, bảo rồi quen

Mẹ con xưa vậy, số đen đâu nào!?

Mị Châu lệ cứ tuôn trào

Biết cha đã quyết, bàn vào, không ra.

Tức thời vâng lệnh vua cha

Thủy mang châu báu đến nhà Mị Châu

Thoáng nhìn nàng đã hết sầu

Người đâu anh tuấn, lời cầu như thơ.

Nhìn Châu, Thủy nghĩ mình mơ

Cảm ơn trời đất xe tơ duyên này

Chàng nàng cúi mặt tỏ bày

Ngoài thì e ấp, trong say men tình.

Sáng lên thành ngắm bình minh

Trưa cùng cưỡi ngựa thả mình trên non

Chiều đi dạo dưới hoàng hôn

Đêm mê đàn hát, liễu hờn, trăng ghen.

Hai người xa lạ, thành quen

Người tim đỏ, kẻ tim đen, cùng giường…

Một hôm trăng sáng như gương

Tỉ tê to nhỏ, giả thương, giả tình.

Mị Châu nào biết cáo tinh

Tận tường kể hết chuyện mình, chuyện ta…

Mách cho nỏ cất phòng cha

Chỉ cho dùng lẫy bắn ra thế nào…

Ngây thơ, mù quáng làm sao

Vô tình, bí mật nàng trao cáo già.

Thư về tâu hết với Đà

Cho làm lẫy giả, xa nhìn y trang.

Châu vui bày tiệc phượng loan

Cha con uống rượu, mơ màng ngủ say

Thời cơ đến, Thủy đổi ngay

Hôm sau, xin phép phải quay về nhà:

  • Thật lòng chẳng muốn rời xa
  • Cha già bệnh nặng, bụng đà lửa than.

Châu rầu rĩ, Thủy như van:

  • Sợ khi chớp bể, mưa ngàn sẽ sao!?
  • Chiến tranh bất cứ lúc nào
  • Lỡ mà thất lạc, ta sao tìm nàng?

Mị Châu đáp lại vội vàng:

  • Người đi bảo trọng, thiếp chàng đừng lo
  • Áo lông ngỗng trắng cha cho
  • Cứ lần theo dấu là dò ra thôi.

Bóng người chưa khuất núi đồi

Triệu Đà ra lệnh liên hồi tấn công

Bao vây thành cả tây đông

Vua ngồi uống rượu, dân lòng không an.

Chẳng phòng, khinh địch, chủ quan

Cậy mình có nỏ, ai can cười khì

Bỗng dưng, mây chuyển màu chì

Chân thành giặc sát, nỏ thì không linh.

Biết thua, lên ngựa, hận mình

Châu ngồi sau vịn, dấu tình rải nhanh

Đường cùng, Cao Xá, Nghệ Thanh

Vua than, thần hiện, ngựa phanh căng thừng:

  • Giặc ngồi ngay ở sau lưng!

Nghe xong, nổi giận, bừng bừng chém con.

Một đời vì nước, vì non

Đến khi thức tỉnh có còn gì đâu.

Lỗi lầm đắm dưới biển sâu

Nhà tan, nước mất, thật đau đớn lòng.

Triệu Đà chiếm được thành xong

Tình yêu chỉ dấu, Thủy mong gặp nàng

Tới nơi còn xác máu loang

Chết nằm trên cát, như đang ngủ rồi.

Thủy an táng ở đỉnh đồi

Nơi uyên ương đã cùng ngồi ngắm sao

Muộn màng hối hận tình trao

Trái tim tan vỡ, nhảy vào giếng sâu.

Máu nàng thành ngọc minh châu

Rửa trong nước giếng, ngàn đau sáng ngời

Tình nàng trong trắng tuyệt vời

Ngây thơ vướng bẫy, đất trời héo hon.

Lỗi mình, vua lại chém con

Nghe lời xúi giục, nước non mất rồi

Vì cha, Thủy lỡ duyên trời

Châu tin tình thật, đầu rơi không còn.

Đời cha truyền lại đời con

Tình yêu bi tráng, tim còn quặn đau

Mây đen luôn quẩn trên đầu

Không phòng, bão đến, còn đâu là nhà.

Hai nghìn năm thắm máu hoa

Mị Châu – Trọng Thủy trường ca bi hùng Nhắc người giữa chuyện riêng chung.

Tình nhà, nghĩa nước, vẹn cùng núi sông.

Lời xưa chép lại đôi dòng

Rất mong con cháu tỏ lòng ông cha

Đông về nắng ấm thành xa

Chuyện hay thơ họa, chút hoa tặng đời.

Hà Lan – 06/12/2024.

Thơ: Lâm Việt Tùng, bảo lưu bản quyền, E-mail: [email protected] – FB: Tung Viet Lam

What do you think?

Written by Khanh Phuong

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

GIPHY App Key not set. Please check settings

Thơ song ngữ: Chiến tranh thế giới/ World war